Bài viết nổi bật
-
Anh xin thề không tán tỉnh em đâu Dẫu em đẹp và vô cùng khả ái Đẹp như thể làm lòng anh tê tái Muốn nhìn hoài mà chẳng dám nhìn lâu ...
-
Hà cho rằng với con gái, ngoại hình không phải là tất cả nhưng nó lại rất quan trọng. Vậy nên nếu làm đẹp để mình tự tin hơn thì các cô gái...
-
Các trang web này đều đã được cộng đồng Reddit/Beermoney với hơn 160,000 thành viên thảo luận và lựa chọn kỹ càng. Làm thêm là một các...
Tâm trạng hôm nay
rảnh
Tin tức quan tâm
Nghe tin gửi ngân hàng lấy lãi cũng là 1 hình thức kinh doanh, phải chấp nhận rủi ro, ngân hàng mà yếu kém phá sản thì có gửi tiền tỷ hay tiền trăm cũng chỉ đc max 75 triệu giải an ủi thôi :)) Lo quá BIDV mình vẫn còn 50k phí duy trì thẻ không rút được!
Cho anh em về bờ
34
Giới thiệu về Blog
Được viết vào một chiều rảnh rỗi ngẫu hứng, mình nghĩ rằng đã luyện gõ 10 ngón thì làm luôn 1 cái blog mà đăng tải văn thơ yêu thích vào cho nó thích thú :)
Blog Archive
- tháng 11 2017 (10)
- tháng 10 2017 (3)
Tìm kiếm Blog này
Giới thiệu về tôi
Thứ Bảy, 4 tháng 11, 2017
Lịch sử phát triển của nền điện ảnh Nhật Bản từng chứng kiến không ít tác phẩm sáng chói, phản ánh những suy nghĩ và góc nhìn tinh tế của các đạo diễn đối với bối cảnh xã hội ở từng thời kì.
Tokyo Story (1953)
Đạo diễn: Yasujiro Ozu
Không chỉ được xem là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà làm phim bậc thầy Yasujirou Ozu, Tokyo Story còn được đánh giá là kiệt tác của điện ảnh thế giới. Bộ phim kể về câu chuyện của một cặp vợ chồng già ở tuổi gần đất xa trời lên thủ đô Tokyo, Nhật Bản, để thăm hai đứa con thành đạt. Người con trai cả làm bác sĩ, người con gái chủ một tiệm làm tóc. Cả hai đều đã lập gia đình và có cuộc sống khá ổn định. Nhưng đôi vợ chồng già hụt hẫng khi các con tiếp đón cha mẹ một cách nhạt nhẽo và tính toán. Người duy nhất ở Tokyo đối xử chân thành và tình cảm với hai ông bà, lại là cô con dâu, vợ của người con trai thứ đã qua đời.
Tokyo Story không hề có xung đột, không có kẻ xấu… chỉ có những người tốt làm cho nhau đau đớn. Bộ phim khiến khán giả phải “dán mắt” vào màn hình bởi chuyện phim giống như một lát cắt trần trụi của cuộc đời. Sự vĩ đại của Tokyo Story nằm ở tính giản dị nhưng vẫn mang ý nghĩa rất sâu sắc, vượt qua mọi không gian và thời gian. Nó gần gũi đến mức tưởng như chúng ta vừa mới nghe thấy ở đâu đó hay là câu chuyện đã hoặc đang xảy ra trong gia đình mình.
Bộ phim được rất nhiều nhà phê bình điện ảnh đánh giá cao và luôn lọt top các bảng xếp hạng điện ảnh uy tín của thế giới. Trong cuộc bầu chọn của tạp chí Sight and Sound, Tokyo Story đã ba lần được bình chọn trong danh sách 10 bộ phim hay nhất mọi thời đại (xếp thứ 3 năm 1992, xếp thứ 5 năm 2002, xếp thứ 3 năm 2012). Tạp chí Time cũng tôn vinh Tokyo Story vào danh sách 100 phim hay nhất mọi thời đại (All-TIME 100 Movies). Năm 2015 tại LHP Busan lần thứ 20, Tokyo Story đã được bình chọn là bộ phim châu Á hay nhất mọi thời đại. Tokyo Story cũng là một trong những phim châu Á hiếm hoi nhiều lần được Viện phim ảnh Anh đưa vào các chương trình giảng dạy của họ.
Rashomon (1950)
Đạo diễn: Akira Kurosawa
Giải thưởng: Giải Oscar cho Phim nói tiếng nước ngoài xuất sắc nhất năm 1951, Giải Sư tử vàng tại LHP Venice năm 1951
Tác phẩm được coi là một trong những bộ phim xuất sắc nhất của Kurosawa cũng như là một trong những kiệt tác của điện ảnh thế giới. Bộ phim dựa trên 2 truyện ngắn của nhà văn Akugatawa là Rashomon và In a Grove. Vợ của một samurai bị tên cướp Tajomaru hãm hiếp còn chàng samurai bị giết chết bởi một thanh gươm đâm vào ngực. Vụ án này được kể lại qua 4 góc nhìn khác nhau: Tên cướp Tajomaru, thiếu phụ bị cưỡng bức Masago, samurai bị giết nhập hồn vào thầy đồng và một tiều phu vô danh. Mỗi lời khai cung cấp một phiên bản khác nhau về sự việc, đưa khán giả vào một mê cung phức tạp không biết đâu mới là sự thật.
Sau khi ra đời, Rashomon đã giành được hai giải thưởng điện ảnh quốc tế lớn là giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venice và giải Oscar cho Phim ngoại ngữ hay nhất tại lễ trao giải Oscar năm 1951, giúp Kurosawa trở thành đạo diễn châu Á đầu tiên dành chiến thắng ở hai giải thưởng này. Đây là một trong những bộ phim Nhật Bản đầu tiên được biết tới rộng rãi ở tầm quốc tế và nó cũng đưa Kurosawa Akira lên vị trí một trong những đạo diễn hàng đầu của thế giới.
Bộ phim xếp thứ 2 trong top 100 phim châu Á hay nhất mọi thời đại, xếp thứ 22 trong danh sách "The 100 Best Films Of World Cinema" do tạp chí Empire của Anh bình chọn. Tương tự một số tác phẩm khác của Kurosawa, Rashōmon đã được Hollywood làm lại với bối cảnh Viễn Tây, đó là bộ phim The Outrage với sự tham gia của Paul Newman, Claire Bloom và Edward G. Robinson.
Seven Samurai (1954)
Đạo diễn: Akira Kurosawa
Giải thưởng: Giải Sư tử vàng tại LHP Venice năm 1955, Giải BAFTA cho Phim ngoại ngữ xuất sắc nhất năm 1955
Seven Samurai là biểu tượng kinh điển của điện ảnh châu Á, trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều bộ phim anh hùng - võ thuật sau này của phương Tây. Bộ phim lấy bối cảnh tại một ngôi làng ở Nhật Bản vào thế kỉ 16, kể về nhóm bảy võ sĩ đạo dũng cảm bảo vệ dân làng đói khổ trước bọn cướp hung tợn.
Với tuổi đời 60 năm, tuy mang nội dung không mới về tinh thần nghĩa hiệp của các võ sĩ, Seven Samurai vẫn hấp dẫn khán giả toàn thế giới với phong cách làm phim độc đáo, chân thực. Phim tạo cảm hứng cho nhiều tác phẩm điện ảnh phương Tây, trong đó không thể không kể đến bộ phim viễn Tây kinh điển Magnificent Seven ra mắt vào năm 1960. Seven Samurai đã đoạt nhiều giải thưởng, trong đó có giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venice năm 1955, và giải Phim ngoại ngữ xuất sắc nhất do Viện Hàn lâm Điện ảnh Anh quốc (BAFTA) trao tặng cùng năm. Bộ phim xếp thứ nhất trong số 100 Phim điện ảnh xuất sắc nhất mọi thời đại do tạp chí Empire bình chọn.
Gate of Hell (1953)
Đạo diễn: Teinosuke Kinugasa
Giải thưởng: Giải Oscar cho Phim ngoại ngữ xuất sắc nhất năm 1954, Giải Grand Prix tại LHP Cannes năm 1954, Giải thưởng của hội phê bình phim New York cho Phim nước ngoài xuất sắc nhất năm 1954
Bộ phim năm 1953 của đạo diễn Teinosuke Kinugasa là câu chuyện kể về một samurai muốn kết hôn với một người phụ nữ mà anh ta đã giải cứu, để rồi nhận ra rằng cô ta đã có chồng. Sử dụng kĩ thuật Eastmancolor, tác phẩm thuộc thể loại jidai-geki (thời đại kịch) này là phim màu đầu tiên của hãng phim Daiei Film và là phim màu đầu tiên của Nhật Bản được trình chiếu tại nước ngoài.
Năm 1954, Gate of Hell tham dự LHP Quốc tế Cannes và được Chủ tịch ban giám khảo Jean Cocteau khen ngợi là "đỉnh cao của cái đẹp". Sau khi giành giải Grand Prix (Giải thưởng lớn) tại LHP Cannes, bộ phim được trao giải thưởng Oscar danh dự cho Phim nước ngoài xuất sắc nhất và giải Oscar cho Phục trang đẹp nhất vào năm 1955.
Yojimbo (1961)
Đạo diễn: Akira Kurosawa
Giải thưởng: Giải Sư tử vàng tại LHP Venice năm 1962
Sự xuất hiện của Yojimbo không chỉ thổi luồng gió mới vào nền điện ảnh Nhật Bản mà còn gây ảnh hưởng tới phong cách làm phim của các nước phương Tây, điển hình là phim A Fistful of Dollars ra đời một năm sau đó của tài tử Clint Eastwood. Yojimbo xếp ở vị trí 95 trong danh sách 500 phim hay nhất mọi thời đại của tạp chí Empire.
Phim là câu chuyện về một võ sĩ lang bạt khắp giang hồ có tấm lòng cao thượng, đã quyết đánh cược mạng sống của mình để giảng hòa hai băng đảng giang hồ, tránh gây đổ máu cho người dân vô tội.
Woman in the Dunes (1964)
Đạo diễn: Hiroshi Teshigahara
Giải thưởng: Giải Cành cọ vàng tại LHP Cannes năm 1964
Là một trong những bộ phim tiên phong về trào lưu làm phim mang phong cách siêu thực ở Nhật, Woman in the Dunes được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết cùng tên của biên kịch Kobo Abe. Qua hình ảnh ngôi nhà giữa cồn cát trắng mênh mông hay các biểu tượng đậm tính triết học hiện sinh khi nhân vật chính Jumpei đào cát quanh nhà hay cố leo lên những cồn cát cao để thoát khỏi “Cô gái cát”, phim phần nào đã giải đáp nhiều câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời và triết lý nhân sinh. Bộ phim đã đoạt giải Cành cọ vàng tại LHP Cannes 1964 và đề cử giải Oscar cho Phim nước ngoài hay nhất và đạo diễn xuất sắc nhất cùng năm.
Departures (2008)
Đạo diễn: Yôjirô Takita
Giải thưởng: Giải Oscar cho Phim ngoại ngữ xuất sắc nhất năm 2008
Là bộ phim Nhật Bản thứ tư nhận được giải Oscar cho hạng mục Phim nước ngoài xuất sắc nhất, Departures xoáy sâu vào đề tài chết chóc thông qua nghề trang điểm tử thi của gia đình nhân vật chính, nhưng lại không khiến khán giả thấy ghê sợ. Với những triết lý Phật giáo về cõi sinh cõi tử được lồng ghép tinh tế, phim như một bản nhạc nhẹ nhàng, sâu lắng lặng lẽ thấm sâu vào lòng người.
Battle Royale (2000)
Đạo diễn: Kinji Fukasaku
Battle Royale được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Koushun Takami đã gây ra một tiếng vang lớn thời bấy giờ, tạo ra nhiều làn sóng tranh cãi trái chiều bởi tính bạo lực của nó.
Phim lấy bối cảnh trong tương lai gần, nhằm chấn chỉnh tình trạng đạo đức của xã hội, mỗi năm chính phủ chọn ngẫu nhiên một nhóm các học sinh lớp 9 và đẩy ra hoang đảo. Tại đây trong vòng 3 ngày, các học sinh này phải giết lẫn nhau, người cuối cùng sống sót sẽ là người chiến thắng. Các cảnh hành động cùng lời thoại của phim tuy không quá xuất sắc nhưng đủ khiến người xem hãi hùng khi chứng kiến những gương mặt thiếu niên búng ra sữa cầm dao giết hại bạn bè mình.
Nobody Knows (2004)
Đạo diễn: Hirokazu Koreeda
Giải thưởng: Giải Cành cọ vàng tại LHP Cannes năm 2004
Nobody Knows dựa trên câu chuyện hoàn toàn có thật về 4 đứa trẻ bị chính mẹ ruột của mình bỏ rơi trong một căn hộ tại Nhật năm 1988, phải gồng mình chống lại cơn đói khát trong nhiều ngày. Sự kiện này đã làm chấn động dư luận trong và ngoài nước Nhật, người mẹ nhẫn tâm cũng bị tuyên án 3 năm tù giam. Diễn xuất tuyệt vời của Yuya Yagira - 14 tuổi trong vai người anh cả Akira đã mang về cho anh giải nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại LHP Cannes 2004, giúp anh đi vào lịch sử khi trở thành nam diễn viên trẻ nhất từng chiến thắng giải thưởng này.
The Taste of Tea (2005)
Đạo diễn: Katsuhito Ishii
The Taste of Tea kể về gia đình Haruno gồm 3 thế hệ với 5 thành viên sống cùng nhau tại một miền quê Nhật Bản, mỗi thành viên lại có những cá tính và suy nghĩ khác nhau, bổ trợ nhau thành một “bức tranh đa sắc” hoàn chỉnh.
The Taste of Tea có nội dung nhẹ nhàng, giản dị và đề cao tình thân gia đình, đặc biệt là có nhiều cảnh quay được ngộ nghĩnh hóa theo phong cách truyện tranh Nhật Bản. Riêng chi tiết này rất được đánh giá cao tại các LHP ở Pháp, Mỹ, Hawaii...
Like Father Like Son (2013)
Đạo diễn: Hirokazu Koreeda
Giải thưởng: Giải Jury Prize tại LHP Cannes năm 2013
Ryota (Masaharu Fukuyama) là một kiến trúc sư thành đạt làm việc tại Tokyo, có người vợ Midori và cậu con trai Keita 6 tuổi là nguồn động lực để anh làm việc không biết mệt mỏi. Trong một lần xét nghiệm máu, Ryota phát hiện Keita không phải là con mình, con ruột của anh hiện đang được gia đình khác nuôi dưỡng, điều này khiến cả 2 gia đình lâm vào tình thế vô cùng khó xử.
Lấy đề tài về tình phụ tử thiêng liêng nhưng Like Father, Like Son lại có cách tiếp cận hoàn toàn mới mẻ thông qua những bài học trên hành trình tìm lại chính mình của ông bố. Phim thích hợp với những ai đang là cha mẹ, cũng như những người sẽ trở thành cha mẹ trong tương lai cùng xem và suy ngẫm.
Tokyo Sonata (2008)
Đạo diễn: Kiyoshi Kurosawa
Giải thưởng: Giải Jury Prize tại LHP Cannes năm 2008
Tokyo Sonata là tác phẩm điện ảnh giành giải Prix Un Certain Regard tại LHP Cannes 2008. Một gia đình trung lưu ở thành phố Tokyo, bỗng đứng trước nguy cơ tan vỡ khi người chồng Ryuhei Sasaki, lao động chính trong gia đình, mất việc. Vì lòng tự trọng, Ryuhei quyết định giấu kín chuyện này, mỗi sáng lại giả vờ ăn vận chỉnh tề tới công ty. Phim có nội dung tiếp cận một cách trực diện đến tàn nhẫn cuộc sống của một gia đình Nhật điển hình ở thế kỉ 21, bị bủa vây dưới áp lực khủng hoảng kinh tế và các lề thói đạo đức hà khắc.
Tokyo Story (1953)
Đạo diễn: Yasujiro Ozu
Không chỉ được xem là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà làm phim bậc thầy Yasujirou Ozu, Tokyo Story còn được đánh giá là kiệt tác của điện ảnh thế giới. Bộ phim kể về câu chuyện của một cặp vợ chồng già ở tuổi gần đất xa trời lên thủ đô Tokyo, Nhật Bản, để thăm hai đứa con thành đạt. Người con trai cả làm bác sĩ, người con gái chủ một tiệm làm tóc. Cả hai đều đã lập gia đình và có cuộc sống khá ổn định. Nhưng đôi vợ chồng già hụt hẫng khi các con tiếp đón cha mẹ một cách nhạt nhẽo và tính toán. Người duy nhất ở Tokyo đối xử chân thành và tình cảm với hai ông bà, lại là cô con dâu, vợ của người con trai thứ đã qua đời.
Tokyo Story không hề có xung đột, không có kẻ xấu… chỉ có những người tốt làm cho nhau đau đớn. Bộ phim khiến khán giả phải “dán mắt” vào màn hình bởi chuyện phim giống như một lát cắt trần trụi của cuộc đời. Sự vĩ đại của Tokyo Story nằm ở tính giản dị nhưng vẫn mang ý nghĩa rất sâu sắc, vượt qua mọi không gian và thời gian. Nó gần gũi đến mức tưởng như chúng ta vừa mới nghe thấy ở đâu đó hay là câu chuyện đã hoặc đang xảy ra trong gia đình mình.
Bộ phim được rất nhiều nhà phê bình điện ảnh đánh giá cao và luôn lọt top các bảng xếp hạng điện ảnh uy tín của thế giới. Trong cuộc bầu chọn của tạp chí Sight and Sound, Tokyo Story đã ba lần được bình chọn trong danh sách 10 bộ phim hay nhất mọi thời đại (xếp thứ 3 năm 1992, xếp thứ 5 năm 2002, xếp thứ 3 năm 2012). Tạp chí Time cũng tôn vinh Tokyo Story vào danh sách 100 phim hay nhất mọi thời đại (All-TIME 100 Movies). Năm 2015 tại LHP Busan lần thứ 20, Tokyo Story đã được bình chọn là bộ phim châu Á hay nhất mọi thời đại. Tokyo Story cũng là một trong những phim châu Á hiếm hoi nhiều lần được Viện phim ảnh Anh đưa vào các chương trình giảng dạy của họ.
Rashomon (1950)
Đạo diễn: Akira Kurosawa
Giải thưởng: Giải Oscar cho Phim nói tiếng nước ngoài xuất sắc nhất năm 1951, Giải Sư tử vàng tại LHP Venice năm 1951
Tác phẩm được coi là một trong những bộ phim xuất sắc nhất của Kurosawa cũng như là một trong những kiệt tác của điện ảnh thế giới. Bộ phim dựa trên 2 truyện ngắn của nhà văn Akugatawa là Rashomon và In a Grove. Vợ của một samurai bị tên cướp Tajomaru hãm hiếp còn chàng samurai bị giết chết bởi một thanh gươm đâm vào ngực. Vụ án này được kể lại qua 4 góc nhìn khác nhau: Tên cướp Tajomaru, thiếu phụ bị cưỡng bức Masago, samurai bị giết nhập hồn vào thầy đồng và một tiều phu vô danh. Mỗi lời khai cung cấp một phiên bản khác nhau về sự việc, đưa khán giả vào một mê cung phức tạp không biết đâu mới là sự thật.
Sau khi ra đời, Rashomon đã giành được hai giải thưởng điện ảnh quốc tế lớn là giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venice và giải Oscar cho Phim ngoại ngữ hay nhất tại lễ trao giải Oscar năm 1951, giúp Kurosawa trở thành đạo diễn châu Á đầu tiên dành chiến thắng ở hai giải thưởng này. Đây là một trong những bộ phim Nhật Bản đầu tiên được biết tới rộng rãi ở tầm quốc tế và nó cũng đưa Kurosawa Akira lên vị trí một trong những đạo diễn hàng đầu của thế giới.
Bộ phim xếp thứ 2 trong top 100 phim châu Á hay nhất mọi thời đại, xếp thứ 22 trong danh sách "The 100 Best Films Of World Cinema" do tạp chí Empire của Anh bình chọn. Tương tự một số tác phẩm khác của Kurosawa, Rashōmon đã được Hollywood làm lại với bối cảnh Viễn Tây, đó là bộ phim The Outrage với sự tham gia của Paul Newman, Claire Bloom và Edward G. Robinson.
Seven Samurai (1954)
Đạo diễn: Akira Kurosawa
Giải thưởng: Giải Sư tử vàng tại LHP Venice năm 1955, Giải BAFTA cho Phim ngoại ngữ xuất sắc nhất năm 1955
Seven Samurai là biểu tượng kinh điển của điện ảnh châu Á, trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều bộ phim anh hùng - võ thuật sau này của phương Tây. Bộ phim lấy bối cảnh tại một ngôi làng ở Nhật Bản vào thế kỉ 16, kể về nhóm bảy võ sĩ đạo dũng cảm bảo vệ dân làng đói khổ trước bọn cướp hung tợn.
Với tuổi đời 60 năm, tuy mang nội dung không mới về tinh thần nghĩa hiệp của các võ sĩ, Seven Samurai vẫn hấp dẫn khán giả toàn thế giới với phong cách làm phim độc đáo, chân thực. Phim tạo cảm hứng cho nhiều tác phẩm điện ảnh phương Tây, trong đó không thể không kể đến bộ phim viễn Tây kinh điển Magnificent Seven ra mắt vào năm 1960. Seven Samurai đã đoạt nhiều giải thưởng, trong đó có giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venice năm 1955, và giải Phim ngoại ngữ xuất sắc nhất do Viện Hàn lâm Điện ảnh Anh quốc (BAFTA) trao tặng cùng năm. Bộ phim xếp thứ nhất trong số 100 Phim điện ảnh xuất sắc nhất mọi thời đại do tạp chí Empire bình chọn.
Gate of Hell (1953)
Đạo diễn: Teinosuke Kinugasa
Giải thưởng: Giải Oscar cho Phim ngoại ngữ xuất sắc nhất năm 1954, Giải Grand Prix tại LHP Cannes năm 1954, Giải thưởng của hội phê bình phim New York cho Phim nước ngoài xuất sắc nhất năm 1954
Bộ phim năm 1953 của đạo diễn Teinosuke Kinugasa là câu chuyện kể về một samurai muốn kết hôn với một người phụ nữ mà anh ta đã giải cứu, để rồi nhận ra rằng cô ta đã có chồng. Sử dụng kĩ thuật Eastmancolor, tác phẩm thuộc thể loại jidai-geki (thời đại kịch) này là phim màu đầu tiên của hãng phim Daiei Film và là phim màu đầu tiên của Nhật Bản được trình chiếu tại nước ngoài.
Năm 1954, Gate of Hell tham dự LHP Quốc tế Cannes và được Chủ tịch ban giám khảo Jean Cocteau khen ngợi là "đỉnh cao của cái đẹp". Sau khi giành giải Grand Prix (Giải thưởng lớn) tại LHP Cannes, bộ phim được trao giải thưởng Oscar danh dự cho Phim nước ngoài xuất sắc nhất và giải Oscar cho Phục trang đẹp nhất vào năm 1955.
Yojimbo (1961)
Đạo diễn: Akira Kurosawa
Giải thưởng: Giải Sư tử vàng tại LHP Venice năm 1962
Sự xuất hiện của Yojimbo không chỉ thổi luồng gió mới vào nền điện ảnh Nhật Bản mà còn gây ảnh hưởng tới phong cách làm phim của các nước phương Tây, điển hình là phim A Fistful of Dollars ra đời một năm sau đó của tài tử Clint Eastwood. Yojimbo xếp ở vị trí 95 trong danh sách 500 phim hay nhất mọi thời đại của tạp chí Empire.
Phim là câu chuyện về một võ sĩ lang bạt khắp giang hồ có tấm lòng cao thượng, đã quyết đánh cược mạng sống của mình để giảng hòa hai băng đảng giang hồ, tránh gây đổ máu cho người dân vô tội.
Woman in the Dunes (1964)
Đạo diễn: Hiroshi Teshigahara
Giải thưởng: Giải Cành cọ vàng tại LHP Cannes năm 1964
Là một trong những bộ phim tiên phong về trào lưu làm phim mang phong cách siêu thực ở Nhật, Woman in the Dunes được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết cùng tên của biên kịch Kobo Abe. Qua hình ảnh ngôi nhà giữa cồn cát trắng mênh mông hay các biểu tượng đậm tính triết học hiện sinh khi nhân vật chính Jumpei đào cát quanh nhà hay cố leo lên những cồn cát cao để thoát khỏi “Cô gái cát”, phim phần nào đã giải đáp nhiều câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời và triết lý nhân sinh. Bộ phim đã đoạt giải Cành cọ vàng tại LHP Cannes 1964 và đề cử giải Oscar cho Phim nước ngoài hay nhất và đạo diễn xuất sắc nhất cùng năm.
Departures (2008)
Đạo diễn: Yôjirô Takita
Giải thưởng: Giải Oscar cho Phim ngoại ngữ xuất sắc nhất năm 2008
Là bộ phim Nhật Bản thứ tư nhận được giải Oscar cho hạng mục Phim nước ngoài xuất sắc nhất, Departures xoáy sâu vào đề tài chết chóc thông qua nghề trang điểm tử thi của gia đình nhân vật chính, nhưng lại không khiến khán giả thấy ghê sợ. Với những triết lý Phật giáo về cõi sinh cõi tử được lồng ghép tinh tế, phim như một bản nhạc nhẹ nhàng, sâu lắng lặng lẽ thấm sâu vào lòng người.
Battle Royale (2000)
Đạo diễn: Kinji Fukasaku
Battle Royale được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Koushun Takami đã gây ra một tiếng vang lớn thời bấy giờ, tạo ra nhiều làn sóng tranh cãi trái chiều bởi tính bạo lực của nó.
Phim lấy bối cảnh trong tương lai gần, nhằm chấn chỉnh tình trạng đạo đức của xã hội, mỗi năm chính phủ chọn ngẫu nhiên một nhóm các học sinh lớp 9 và đẩy ra hoang đảo. Tại đây trong vòng 3 ngày, các học sinh này phải giết lẫn nhau, người cuối cùng sống sót sẽ là người chiến thắng. Các cảnh hành động cùng lời thoại của phim tuy không quá xuất sắc nhưng đủ khiến người xem hãi hùng khi chứng kiến những gương mặt thiếu niên búng ra sữa cầm dao giết hại bạn bè mình.
Nobody Knows (2004)
Đạo diễn: Hirokazu Koreeda
Giải thưởng: Giải Cành cọ vàng tại LHP Cannes năm 2004
Nobody Knows dựa trên câu chuyện hoàn toàn có thật về 4 đứa trẻ bị chính mẹ ruột của mình bỏ rơi trong một căn hộ tại Nhật năm 1988, phải gồng mình chống lại cơn đói khát trong nhiều ngày. Sự kiện này đã làm chấn động dư luận trong và ngoài nước Nhật, người mẹ nhẫn tâm cũng bị tuyên án 3 năm tù giam. Diễn xuất tuyệt vời của Yuya Yagira - 14 tuổi trong vai người anh cả Akira đã mang về cho anh giải nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại LHP Cannes 2004, giúp anh đi vào lịch sử khi trở thành nam diễn viên trẻ nhất từng chiến thắng giải thưởng này.
The Taste of Tea (2005)
Đạo diễn: Katsuhito Ishii
The Taste of Tea kể về gia đình Haruno gồm 3 thế hệ với 5 thành viên sống cùng nhau tại một miền quê Nhật Bản, mỗi thành viên lại có những cá tính và suy nghĩ khác nhau, bổ trợ nhau thành một “bức tranh đa sắc” hoàn chỉnh.
The Taste of Tea có nội dung nhẹ nhàng, giản dị và đề cao tình thân gia đình, đặc biệt là có nhiều cảnh quay được ngộ nghĩnh hóa theo phong cách truyện tranh Nhật Bản. Riêng chi tiết này rất được đánh giá cao tại các LHP ở Pháp, Mỹ, Hawaii...
Like Father Like Son (2013)
Đạo diễn: Hirokazu Koreeda
Giải thưởng: Giải Jury Prize tại LHP Cannes năm 2013
Ryota (Masaharu Fukuyama) là một kiến trúc sư thành đạt làm việc tại Tokyo, có người vợ Midori và cậu con trai Keita 6 tuổi là nguồn động lực để anh làm việc không biết mệt mỏi. Trong một lần xét nghiệm máu, Ryota phát hiện Keita không phải là con mình, con ruột của anh hiện đang được gia đình khác nuôi dưỡng, điều này khiến cả 2 gia đình lâm vào tình thế vô cùng khó xử.
Lấy đề tài về tình phụ tử thiêng liêng nhưng Like Father, Like Son lại có cách tiếp cận hoàn toàn mới mẻ thông qua những bài học trên hành trình tìm lại chính mình của ông bố. Phim thích hợp với những ai đang là cha mẹ, cũng như những người sẽ trở thành cha mẹ trong tương lai cùng xem và suy ngẫm.
Tokyo Sonata (2008)
Đạo diễn: Kiyoshi Kurosawa
Giải thưởng: Giải Jury Prize tại LHP Cannes năm 2008
Tokyo Sonata là tác phẩm điện ảnh giành giải Prix Un Certain Regard tại LHP Cannes 2008. Một gia đình trung lưu ở thành phố Tokyo, bỗng đứng trước nguy cơ tan vỡ khi người chồng Ryuhei Sasaki, lao động chính trong gia đình, mất việc. Vì lòng tự trọng, Ryuhei quyết định giấu kín chuyện này, mỗi sáng lại giả vờ ăn vận chỉnh tề tới công ty. Phim có nội dung tiếp cận một cách trực diện đến tàn nhẫn cuộc sống của một gia đình Nhật điển hình ở thế kỉ 21, bị bủa vây dưới áp lực khủng hoảng kinh tế và các lề thói đạo đức hà khắc.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét